NHÀ LÁ MÁI
09-10-2015 15:12
0 nhận xét
4491 lượt xem
Văn Minh Sức Sống Việt
NHÀ
LÁ MÁI
Nghệ
thuật tiến hóa trong kiến trúc Gia cư Dân tộc Việt
Đạo
nghĩa xưa nay hễ làm người ở trên đời có đủ lương tri, lương năng, ai ai cũng
phải có ngôi nhà để làm căn bản phát triển bền vững cho gia đình mình.
Nói
cách đơn giản khác, khởi chí tu đức lập thân xiển nghiệp của con người phải được
xuất phát từ nền tảng an cư lạc nghiệp. Hơn nưa, cây có cội nước có nguồn, ngôi
nhà còn làm nơi bảo tồn truyền thống Văn hiến thờ phụng Tổ tiên nhằm thiết đặt
giềng mối gia phong hiếu lễ… cho con cháu nhiều đời sau gìn giữ noi theo.
Khi
kiến lập gia cư không ai không mơ ước phải chắc chắn trước những biến thiên khắc
nghiệt của thiên tai, địch họa bằng nguyên vật liệu mà thiên nhiên ban sẵn tại
chính nơi mình đang sinh sống, tiêu biểu của sự trường tồn của Miêu Duệ sau
này. Với các quan niệm đúng đắn đậm màu sắc dân tộc bản sắc nhân văn nói trên:
Nhà Lá Mái đã ra đời.
Nhà
Lá Mái ra đời từ lúc Tây Sơn nổi dậy. Có dịp chúng ta sẽ nói kỹ hơn về sự kiện
này.
Từ
năm 1954, người viết mới thực sự trở về và ở tại quê ngoại trên đất Quảng. Năm
1958 hoàn cảnh đất nước tốt hơn, người viết về một nơi mà bộ phận gia đình phía
nội đã sinh cư khá lâu đời.
Khi
còn nhỏ sống trong ngôi nhà Lá Mái lượn hình chữ Công khá lớn của ngoại. Tuy
lúc đó là thời đổi đời, học hành có khác nhưng các dì, các mợ khi ru con cháu đều
bằng những lời từ các bài học luân lý hiếu để… trong sách Quốc Văn Đồng Ấu hoặc
Quốc Văn Giáo Khoa Thư với những câu như:
Con ơi! Muốn nên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời
mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi, khi ra
thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm
thơ
Dùi mài kinh sử…
Hoặc
thơ của Tản Đà:
Tan buổi học mẹ ngồi tựa
cửa
Mắt trông con đứa đứa về
dần
Trông xa con đã tới gần
Một nhà đông đủ quay quần
bữa ăn
Cơm dưa muối khó khăn mới
có
Của không ngon nhà khó
cũng ngon
Khi vui câu chuyện thêm
dòn
Chồng chồng vợ vợ, con
con một đoàn.
Hơn
nữa:
Con nên nhớ tổ tôn ngày
trước
Đã từng phen vì nước gian
lao
Bắc – Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào
còn dây
Kìa Trưng Nữ ra tay dựng
nước
Phận liễu bồ xoay với cuồng
phong
Giết giặc nước trả thù chồng
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng
còn ghi
Nọ Hưng Đạo gặp khi quốc
biến
Vì giống nòi quyết chí
bao phen
Sông Bạch Đằng phá quân
Nguyên
Gươm reo chính khí nước rền
dư uy…
Chính
những lời ru trong ngôi nhà Lá Mái đó đã thấm nhuần, nung nấu ý chí trong ứng xử
khuôn thước từ nhỏ của các anh chị em cô cậu, bạn dì… Và nó có giá trị Lễ - Văn
tuyệt đối sau này.
Khi
người viết lớn lên trong ngôi nhà Lá Mái ấy, để ý quan sát kỹ nơi mà trong cảm
nghĩ rằng mình sẽ an cư ở đây, chứ không cần phải lênh đênh nữa.
Ngôi
nhà này hình chữ Công rộng lớn tọa trong khu vườn một mẫu, được bao bọc bởi bốn
bề tre trúc và đại thụ, cây cảnh xầm uất xanh mát quanh năm và hầu như không
lúc nào ngớt tiếng chim ca. Cách hơn trăm thước là những bàu sen rất rộng và cánh
đồng bát ngát, trải dài cho tới chân dãy Trường Sơn. Nơi đây như chính là thiên
đường trần thế.
Theo
như người lớn kể lại thì hồi Việt Minh tiêu thổ kháng chiến, chính quyền hành
kháng chỉ ra lệnh cho gia đình đục trống bốn cửa trong vách ngôi nhà và đào hầm
cá nhân trốn máy bay ngoài ranh vườn chứ không phá hết. Bom đạn Pháp không làm
hề hấn gì ngôi nhà…
Đến
mùa xuân 1965 khi chiến họa lên đỉnh điểm, quân đội Mỹ và Đại Hàn đổ bộ, ngôi
nhà này cùng tất cả nhà cửa, xóm làng trải dài khắp giải nông thôn miền Trung
Việt Nam đều bị đốt phá sạch. Riêng ngôi nhà lá mái của chúng tôi lúc đầu chịu
nhiều bom đạn của Mỹ nhưng không bị cháy sập, vì kiến trúc truyền thống Việt vững
chắc của nó. Sau do nằm trong khu vực đóng quân đồn, quân Mỹ đã dùng xe ủi lớn ủi
sập. Sau khi dùng mìn đánh bật tất cả lũy tre xung quanh đã che chở cho ngôi
nhà qua hàng trăm năm. Cuộc tàn phá này cho đến nay, người viết vẫn cảm thấy
máu rỉ ra từ tận hồn dân tộc.
Chính
tính bền vững đầy nghệ thuật tiến hóa của một dòng kiến trúc gia cư truyền thống
thuần Việt đặc sắc, đã đi vào lịch sử Văn Hiến dân tộc mang đậm bản sắc nhân
văn quốc túy, quốc hồn. Nó đã tồn tại theo sự phát triển của đất nước bằng
chính NỀN VĂN MINH SỨC SỐNG VIỆT là sự kế thừa tinh hoa phát triển qua hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước đầy tự hào. Nhưng buồn thay ngày nay chỉ còn tái
dựng rải rác như những chứng tích hoài niệm.
Từ
xưa đến nay kiến trúc gia cư nào cũng có 2 loại: cho giới bình dân và cho giới
thượng lưu. Vì ở đây tôi chỉ nói đến ngôi nhà của chính mình thôi vì tôi biết
rõ nhất mà trong lần trùng tu năm 1957.
Về nguyên liệu truyền thống
§ Thứ
nhất, phải đi khắp nơi để mua cho bằng được dẫu với giá cao loại tre nguồn do lụt
lội đại ngàn Trường Sơn trôi theo sông xuống, người dân vớt theo củi lụt rồi lựa
để dành.
§ Thứ
hai, phải mua nhiều tre gai và tre mỡ các nơi khác vì vườn nhà không đủ, về lấy
cật tre đúng số lượng và kích thước phân sẵn rồi đem ngâm dưới bùn bàu sen ba
năm, cách làm này cho cật tre không bị mối mọt và bền vững trong xây dựng.
§ Thứ
ba, chọn mua những cây gỗ lim lớn làm cột,
kèo… và cũng đem ngâm dưới bàu 3 năm.
§ Thứ
tư, tìm vỏ cây ô dước, vỏ cây gấm và đặc biệt là hạt và lá cây ký sanh, lá vỏ
cây bồ lời, loại bồ lời nhà chùa xay giã lấy bột làm nhang. Các thứ này về ủ,
giã ép lấy một dung dịch dẻo quánh như keo, rồi pha với đường mía lâu năm, nấu
sôi đủ độ để cho ra một hợp chất kết dính rất dẻo dai. Sau đó, cho vào những
thùng đất nung cất kỹ trong chỗ mát hơn một năm, thỉnh thoảng lấy vôi vữa cho
vào khuấy đều mỗi lần một ít.
§ Thứ
năm tìm cây đước về tẩm lại muối trong hơn một tuần và cũng đem xuống bàu ngâm
hơn ba năm…
Về phần kiến trúc truyền thống căn bản.
Ngôi
nhà lá mái của người viết được xây 2 tầng với tường dày 7 tấc “tây”, tre ngâm
bùn làm mầm trỉ vách hai phía bên trong và ngoài mỗi lớp dày 1,5 tấc, cây đước
ngâm bùn được xử lý thêm bằng muối hột nấu chảy pha tiêu, được xếp làm 5 tấc
chính giữa vách. Mầm là cây sắp thẳng đứng còn trỉ là cây ngang, cứ mỗi nơi tiếp
xúc giữa mầm và trỉ đều được cột lạt chẻ từ tre đã xử lý bùn.
Sau
hết, dùng đất bùn trộn với rơm khô, vôi sữa, vôi bột và hợp chất từ các nguyên
liệu kết dính đã nói. Dùng sức người đạp đều cho thật nhuyễn mới trét thành bức
vách cho đến khi hoàn tất ngôi nhà. Nhờ thế mà qua thời binh lửa, bom đạn không
gây hề hấn gì đến nó.
Hai
tầng ngôi nhà được xây, tầng một để ở, gồm có một nhà chính “gọi là nhà trên hoặc
nhà thờ” có hành lang giáp sân lớn, chính giữa là mái hiên để tiếp khách quý hoặc
tiếp họ hàng mỗi khi giỗ chạp, lễ - tết, được ngăn với hành lang bằng một lớp cửa
gỗ thường có chạm trổ. Trong cùng là gian thờ phụng tổ tiên, tín ngưỡng và làm
chỗ nghỉ ngơi cho người chủ gia đình, cách biệt với mái hiên bằng cửa bàn pha (còn
gọi là cửa bức bàn) chạm trổ tinh vi như kèo cột…
Trần
nhà được cấu trúc thành sàn lầu, cốt sàn cũng làm y như làm vách với phần mặt
trên và dưới sàn được tô láng bên ngoài như tô mặt ngoài vách, bằng hỗn hợp vôi
bột, vôi sữa, ô dước, gấm, bồ lời, nhựa của lá và hạt ký sanh, mật đường, muối
nấu chảy với tiêu hột,… trần này còn nhằm ngăn cho khỏi cháy lan xuống dưới hoặc
lên trên mỗi khi có hỏa hoạn lớn.
Tầng
trên sử dụng như tầng cao 3 mét thấp hơn tầng dưới 5 tấc là nơi thờ Liệt Thánh.
Nhà
trên được liên kết với nhà dưới bằng một dãy nhà nhỏ gọi là nhà Kiều với bên
ngoài tiếp giáp sân lớn có cửa sổ thoáng mát, bên trong tiếp giáp với sân giữa.
Thường ngày nhà Kiều làm nơi tiếp khách có đặt một bộ Ván mã lớn và một bộ bàn
ghế gỗ bốn chỗ ngồi.
Nhà
dưới nối liền với nhà bếp, dùng làm nơi ngủ, nghỉ cho cả gia đình với đầy đủ
phòng ốc ngăn nắp, có cả chỗ nghỉ cho bà con xa ở lại.
Nhà
bếp để nấu ăn và làm nơi ăn uống hàng ngày cho gia đình còn có hai chai ngoài nhà bếp chứa
nông cụ và các vật dụng khác. Sân giữa làm nơi chơi đùa về đêm cho đám trẻ khi
gia đình quay quần đằm thắm bên tách trà sen với rượu thơm, bánh ngũ cốc, hàn
huyên chuyện gia đạo, thế sự… vang lừng không gian những tiếng nói cười như
không bao giờ dứt và là nơi làm bánh trái, chuẩn bị mâm cỗ trong các ngày giỗ lễ,
tết nhất tiệc tùng…
Kiến
trúc tổng thể của ngôi nhà lượn theo hình chữ Công với diện tích 400m2
, mùa hè mát mẻ, mùa đông không khí ấm áp sinh khí.
Điều
thú vị, không biết từ khi nào ở chái tây tầng trên, có bầy chim yến về làm tổ -
thật là thiên đường của Ngôn Ngữ Đại Đồng khi bầy chim yến ríu rít đi về, lượn
trên màn khói lam sớm chiều vươn lên nhè nhẹ…
Còn
“Lá Mái” nó mang ý nghĩa do chỗ kết cấu rất khoa học. Nghĩa này xuất phát từ lịch
sử ra đời của nhà Lá Mái từ thời nhiễu loạn Tây Sơn.
Trước
khi trét vách phải làm mái nhà và trần nhà trước. Cốt mái nhà và trần nhà được
làm như vách nhưng mỏng hơn, chỉ dày 2 tấc. Và được làm thành nhiều tấm nhỏ
hình chữ nhật có bộ phận ghép lại được gọi là Lá, nếu ghép lại làm trần thì gọi
là Lá Trần, còn nếu ghép lại làm mái nhà thì gọi là Lá Mái, mỗi cạnh ghép đều nằm
trên con trượt là loại đòn bẩy rất thuận lợi. Rất dễ sửa chữa khi hư hao, dễ
tháo ráp khi tu sửa. Nhất là khi nhà cháy, cần thiết dỡ từng tấm rất dễ dàng
không cho lửa hoành hành.
Trên
cùng mái lợp tranh săng đánh
tấm long hai dày hai tấc, hai mặt tranh được quét đều dung dịch kết
dính. Lợp như vậy độ bền của tranh được bảo đảm từ 5 đến 7 năm.
Cầu
kỳ hơn trong ý nghĩa thẩm mỹ bên trên mái tranh còn lợp thêm lớp Lá mái ngói,
cũng được thiết kế từng lá một nằm trên những con trượt dễ tháo ráp như lá mái
tranh.
Xây
nhà Lá Mái như vậy, kết hợp với lũy tre quanh vườn còn được sử dụng như “Pháo
đài Thủ Đắc chống lại bọn vãng lai cường đạo”.
Tuy
chiến họa kéo dài, đã cướp đi những tài sản mồ hôi nước mắt, gây bao điêu linh
cho thôn làng dân Việt. Nhưng ngôi nhà Lá Mái đúng nghĩa, vẫn chuyên chở cả
truyền thống Văn Hiến Lạc Hồng, vẫn giữ gìn phát triển mạnh mẽ Sức sống Việt
cho mai sau.
Có
nên chăng khi khơi nguồn Văn Minh Sức Sống Việt, ta phải nên có chính sách trên
bình diện quốc gia để khuyến khích tái tạo lại nhà Lá Mái trong đời sống đại đa
số dân cư mà những cái hay nhiều mặt của nó đã gắn liền với lịch sử Văn Hiến,
thúc đẩy sự phát triển bền vững sức sống dân tộc. Và nếu bất cứ ai không gìn giữ,
phát huy Truyền Thống Văn Hiến giống nòi đúng nghĩa, thì đừng mong gì nói đến
văn minh và phát triển… Điều này những ai để tâm thì sẽ thấy ngay.
Vinh
– Hư – Tiêu – Trưởng là lẽ thường tình trong định luật sống vạn vật, nhưng nhờ
ý thức được bản chất lẽ vô thường này và bằng tinh thần tận nhơn tận lực: những
bậc Chân mệnh xưa nay dù trong trị hay loạn, đều có giải pháp Dung sinh nhằm bảo
tồn và phát triển Miêu Duệ vững bền qua hàng ngàn năm lịch sử.
“Dân
tộc Việt có truyền thống Văn Hiến huy hoàng tất phải có tương lai sáng lạn”
THẢO LUẬN - NHẬN XÉT
Chưa có nhận xét nào.